78- GIỚI KHÔNG SÁT SANH - ĐỨC
HIẾU SINH
(06:47) Cho nên vì vậy mà mấy giới luật thì chúng ta nên cố gắng giữ
gìn trọn vẹn. Ví dụ như: Giới không sát sanh, người ta dạy mình giết tất cả
chúng sanh đều được, nhưng mà đừng giết người, giết người là tội. Sự thật ra giết
người thì pháp luật nhà nước sẽ bắt mình bỏ tù mình tức khắc và có thể kêu án tử
hình, đó là cái pháp luật để bảo vệ sự sống của con người, mà chúng ta giết người
thì chúng ta phải bị pháp luật của nhà nước trừng trị.
Còn giết con gà, con heo, con vật thì pháp luật của nhà nước không trị
chúng ta, vì tất cả mọi người đều ăn thịt chúng sanh, nhưng đạo Phật thì cái giới
mà cấm sát sanh, tức là không giết hại chúng sanh, tại vì chúng ta có cái đức
cái lòng thương yêu, thương yêu sự sống của mình, và thương yêu sự sống của
chúng sanh, mỗi loài vật đều có sự sống, mà sự sống thì rất bình đẳng với chúng
ta.
Cho nên chúng ta nỡ lòng nào mà giết chúng, để rồi làm thực phẩm, để rồi
ăn thịt chúng. Cho nên một cái người theo đạo Phật không có nghĩa lấy giới cấm
để mà chúng ta ức chế tâm chúng ta, mà chúng ta phải thực hiện lòng thương yêu,
khi lòng thương yêu chúng ta có, thì chúng ta ăn chay, chúng ta nói ráng để chịu
vậy không, còn thèm. Cho nên có nhiều người ăn chay một thời gian, rồi lại thấy
thèm thịt hoặc thèm cá, đó là vì chúng ta ức chế chứ chúng ta chưa có hiểu.
Vì vậy mà khi chúng ta hiểu được, hiểu được cái lòng thương yêu của chúng
ta, chúng ta phát triển cái lòng thương yêu lớn lên. Cho nên vì vậy mà từng
phút chúng ta đi, đứng, nằm, ngồi, hoặc làm tất cả những cái gì, chúng ta đều cẩn
thận, tránh vì dưới đất của chúng ta có rất nhiều loài côn trùng, nhiều loài kiến,
chúng ta vô tình, cũng làm chúng chết rất tội nghiệp.
Khi một con vật chết đi, nó cũng bỏ lại con nó, nó cũng bỏ lại chồng nó,
nó cũng bỏ lại cha nó, thì rất tội! Chúng ta xét thấy khi chúng ta có gia đình,
thì có vợ, có chồng, có cha mẹ, mà lỡ có người mất thì chúng ta còn đau khổ, huống
hồ loài vật nó cũng có cha, có mẹ, có con cái, mà khi nó bị chết, bị mất vì sự
vô tình của chúng ta, hay sự cố ý, nó cũng đau khổ lắm chứ, nó cũng đau khổ lắm.
(09:00) Khi chúng ta nghĩ như vậy, tình thương chúng ta nó sẽ tăng dần
lên, tăng dần lên. Cho nên chúng ta không nỡ lòng mà giết hại chúng sanh, chúng
ta không nỡ lòng ăn thịt chúng sanh, do cái lòng thương yêu chúng ta, đó mới thực
sự là chúng ta giữ giới không sát sanh. Chứ còn nếu chúng ta giữ giới không sát
sanh, mà không có một sự hiểu biết sâu sắc với cái tình thương yêu như vậy, thì
chúng ta bị ức chế, ức chế thì một ngày nào đó chúng ta không chịu nổi cái sự ức
chế đó, thì chúng ta sẽ thèm thịt, chúng ta sẽ muốn ăn thịt.
Cho nên có một người nói với Thầy: “Con ăn chay nay được ba năm,
mà sao hôm nay con thèm thịt quá”, thì đó là sự ức chế, không thực hiện được
Đức Hiếu Sinh mấy con, chứ còn người ta thực hiện được Đức Hiếu Sinh thì người
ta không thèm thịt nữa.
Có một vị Hòa thượng mà Thầy không nói tên, đến khi bệnh đau gần chết, tức
là bị bán thân mấy con, nằm trên giường nhưng mà đến giờ hấp hối sắp chết rồi,
vị Hòa thượng nói với đệ tử của mình, nói với các phật tử: “Hãy cho Thầy
ăn một miếng thịt rồi Thầy chết mới yên, chứ không cho Thầy ăn miếng thịt, Thầy
chết không yên”, thèm đến mức độ đó mấy con.
Mà từ nhỏ chí lớn đi tu, ăn chay trường ròng rã mấy con, nghĩa là giữ gìn
rất là cẩn thận, mà đến cuối cùng còn bị cái nghiệp ăn thịt chúng sanh, nó còn
đeo đẳng đến khi mà chết. Thì tất cả những công phu mà từ nhỏ chí lớn, một người
khi vô chùa tu hành mà giữ gìn cho đến khi mình làm một vị Hòa thượng, có uy
tín trong Giáo hội, chứ không phải là một vị Hòa thượng bình thường như chúng
ta đâu.
Thế mà đến giờ phút chết không thắng nổi được, không chủ động nổi được,
thì còn bảo các Phật tử, các đệ tử của mình: “Hãy cho Thầy ăn một miếng
thịt để mà Thầy chết”, thì mấy con thấy cái nghiệp rất là nặng, chứ không
phải nhẹ. Cho nên chúng ta phải học Phật pháp mà phải học đúng gốc.
Khi giới sát sanh không phải chúng ta do cái chỗ tu tập mà chúng ta giữ
gìn ăn chay, mà chúng ta ăn chay với lòng thương yêu, thì nó mới thực hiện được
Đức Hiếu Sinh, mới thực hiện được Giới luật nghiêm túc của đạo Phật, đó là những
điều mà rất đơn giản, nhưng chúng ta không khéo thì chúng ta lại bị ức chế. Tu ức
chế, ý thức không khỏi niệm, lọt tưởng. Tưởng uẩn giao cảm từ trường hoạt động
không có không gian và thời gian. Không có linh hồn.
Cũng như quý Phật tử biết rằng, ai cũng biết ngồi để mà giữ cái tâm đừng
khởi niệm. Đừng khởi niệm ai cũng biết cố gắng, nhưng niệm chúng ta vẫn có,
nhưng khi chúng ta cố gắng dùng một cái phương pháp nào để mà chúng ta tu tập.
(11:35) Cũng như mình niệm Phật, cố gắng dùng câu niệm Phật để tăng
ý thức của mình không khởi niệm, đó là cũng một phương pháp ức chế mấy con, rồi
dùng một cái phương pháp như Tham Thoại Đầu, Công Án, hoặc là hơi thở để mình tập
trung tâm chúng ta vào hơi thở, để giúp chúng ta không còn vọng tưởng, nhưng tu
tập như vậy đều là sai hết mấy con, đều là sai hết. Khi mà hết vọng tưởng rồi,
thì chúng ta bị lọt vào trong những trạng thái của tưởng.
Thứ nhất là khi không vọng tưởng thì chúng ta cảm thấy có một trạng thái
khinh an, làm cho chúng ta thấy an ổn, rất an ổn, rồi nó có một niềm hoan hỷ, gọi
là hỷ lạc. Nó xảy ra khi mà vọng tưởng không còn có, cái ức chế ý thức chúng ta
không có, thì nó có những trạng thái khinh an, rồi hỷ lạc. Chúng ta tưởng đó là
chúng ta đã đạt được thiền định, sự thật không phải, đó là tưởng xúc tưởng hỷ lạc,
cái tưởng chúng ta xuất hiện ra.
Cho nên hầu hết mấy con thấy những người mà hiện giờ, mà chúng ta thấy những
vị thầy mà làm phù thủy, lên đàn nhập cốt đều là do trạng thái ức chế ý thức, để
rồi lạc vào tưởng thức, mới có trạng thái nhập cốt, mới có trạng thái lên đồng,
mới có làm những thầy phù thủy.
Đó là những điều mà chúng ta tu sai để rồi dẫn dắt chúng ta đi đến cái hậu
quả sau này, do cái nghiệp tu tập sai mà chúng ta sẽ trở thành những người làm
đồng cốt, những người làm thầy phù thủy, thầy pháp, thầy bùa, thầy ngải, đều là
tất cả những người đó đều là do một kiếp tu sai. Mà cái nghiệp được do tập sai
đó, mà khi tái sanh làm người, khi họ trở thành con người, họ không có luyện tập
nhưng trái lại họ làm được những điều đó mấy con.
Thí dụ các con cũng nghe, như thường nghe như cô Bích Hằng là cái người
đi tìm hài cốt của liệt sĩ. Tại sao người ta cũng là con người như mình, nhưng
người ta nhìn dưới lòng đất, người ta biết đây có hài cốt, người ta biết? Còn
mình lại nhìn không thấy? Hoặc người ta nhìn lên bàn thờ, hoặc qua một cái
nghĩa địa, người ta thấy được những cái linh hồn của những người chết ngồi ở
trên đồng mả, ngồi trên mả, tại sao người ta thấy được? Còn mình lại thấy không
được?
Cho nên vì vậy mà người ta xây dựng cái thế giới siêu hình có linh hồn. Tại
vì có những người người ta thấy, có những người người ta nói rằng cái cô A cô B
đó, mà chết nhập tui bây giờ tui nói lại sao nó đúng quá, cho nên người ta thấy
dường như linh hồn cô này đã nhập.
(14:10) Các con, quý Phật tử đã có đọc cái bài viết của Giáo sư Trần
Phương, ngài viết cái vấn đề ngài đi tìm hài cốt em của ngài. Thì trong khi cô
Bích Hằng là một cái người, được ngài chọn để mà đi tìm hài cốt. Do đó thì cô
Bích Hằng coi như là thấy linh hồn em của ngài về chỉ hài cốt chỗ này, chỗ kia,
đến đâu đều đúng đó, chết cách nào nói rất đúng.
Cho nên Giáo sư Trần Phương rất tin tưởng, mặc dù là một cán bộ cộng sản
cao cấp thế mà vẫn phải tin mấy con. Vì qua những hiện tượng siêu hình như vậy,
làm sao người ta không tin có linh hồn, nhưng người ta không biết giải thích
như thế nào để cho đúng.
Sự thật ra trong thân của chúng ta đức Phật đã dạy có 5 uẩn:
Cái uẩn thứ nhất là sắc uẩn: Sắc uẩn nó hoạt động là ý thức của chúng ta,
nó có 6 cái thức: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý thức, sáu cái thức của chúng
ta, cho nên nó thuộc về sắc uẩn mấy con. Vì vậy mà chúng ta hàng ngày mình sống
thì chúng ta sử dụng sắc uẩn.
Cũng như bây giờ quý Phật tử, các con ngồi đây mà nghe Thầy nói chuyện,
đó là quý vị dùng ý thức tức là sắc uẩn, khi quý vị nằm chiêm bao thì lúc bấy
giờ cái ý thức của chúng ta hoàn toàn nó im lặng nó không có hoạt động cho nên
chúng ta ngủ, mà khi ngủ thì chúng ta đâu còn biết gì, cho nên nó thực hiện qua
cái giấc mộng của chúng ta, đó là tưởng thức hoạt động trong giấc mộng mấy con,
đó là tưởng thức Phật giáo gọi là tưởng uẩn, đó là tưởng thức của chúng ta.
Chúng ta cũng nghĩ rằng đó là cái linh hồn chúng ta nằm chiêm bao, chứ
không phải. Trong thân chúng ta nó có cái sắc uẩn, và cái tưởng uẩn, mà khi cái
tưởng uẩn nó hoạt động, thì nó mặc dù hiện giờ nó đang ở Trảng Bàng, nhưng khi
mà nó hoạt động thì có thể nó nằm mộng thấy nó ở Đà Lạt, hoặc là ở thành phố,
hoặc là ở bất cứ một cái nơi đâu xa, nó vẫn tiếp nhận được cái hình ảnh đó. Đó
là cái tưởng nó không có cái không gian.
Cho nên một cái người mà bị tưởng hoạt động, thì họ không có không gian
đâu, họ không có cái thời gian, cho nên mặt đất không còn ngăn cách họ được.
Còn cái thời gian đã qua, mà giao cảm được với cái sự xảy ra của những nạn
nhân, của những người mà gặp những cái bất an, cho nên họ giao cảm được những
cái từ trường đó họ nói ra, giống như cái linh hồn nhập chứ sự thật ra không có
cái linh hồn nào nhập.
Cho nên đức Phật nói khi thân người đã chết thì năm uẩn hoàn toàn không
có một uẩn nào còn, nó hoại diệt hoàn toàn, tức là không có cái linh hồn gì
trong đó cả. Như vậy rõ ràng là đức Phật xác định rất cụ thể khi đức Phật tu chứng.
Thì trong thời đức Phật các con cũng biết rằng tất cả các ngoại đạo, Lục Sư
trong thời đó được xây dựng cái thế giới ba mươi ba cõi siêu hình, tức là ba
mươi ba cõi Trời.
Sau khi tu chứng, đức Phật không thấy có một cõi nào khác hơn là cái tưởng
của con người, cho nên đức Phật nói ba mươi ba cõi Trời là ba mươi ba cõi tưởng
tri, chứ không phải là liễu tri, đức Phật đã xác định, mà trong khi đó ngoại đạo
đang tôn thờ ba mươi ba cõi Trời, mà người ta cho người lúc bấy giờ, người ta
cũng cho rằng loài người được sanh ra ở thế gian này từ cõi Trời Quan Âm Thiên
mà từ đó sanh ra.
(17:42) Các con đọc lại kinh sách Đại thừa có phải vậy không? Nó là ở
trong kinh sách Đại thừa còn ghi rất rõ ràng, nhưng mà đức Phật đã xác định
không có ba mươi ba cõi Trời, thì làm sao có cõi Trời Quan Âm Thiên mà loài người
từ đó sanh ra đây, không có.
Con người là pháp duyên hợp của môi trường sống. Sắc do tứ đại hợp thành.
Con người là đức Phật đã xác định nó là duyên hợp trong cái môi trường sống thì
nó có đủ bốn chất: Đất, Nước, Gió, Lửa, các con thấy rất rõ mà Đất, Nước, Gió,
Lửa, mà khi Đất, Nước, Gió, Lửa nó hợp đúng duyên nó thì nó trở thành vạn vật
trong đó có con người, do Đất, Nước, Gió, Lửa, mỗi thân chúng ta đều do Đất, Nước,
Gió, Lửa.
Nhưng văn minh của Trung Quốc nó cho Ngũ Hành, Âm Dương Ngũ Hành, con người
chúng ta có đủ Âm Dương Ngũ Hành. Nhưng Âm Dương nó thuộc về nhân quả của Phật
giáo mấy con, bởi vì nếu không có Âm, không có Dương thì làm sao mà hợp duyên để
sanh ra vạn vật.
Cho nên trong nhân quả cái quy luật của nhân quả nó hợp để nó tạo thành
thì nó phải hợp bằng Âm Dương, ngày thì phải có đêm chứ, nam thì phải có nữ chứ.
Mà nữ là Âm mà nam là Dương, ngày là Dương, mà đêm là Âm. Rõ ràng theo cái quy
luật của nhân quả, thì Âm Dương của văn minh của Trung Quốc, của Đông phương của
chúng ta, thì nó chỉ thấy Âm Dương là cái lực của Âm Dương thôi, rồi nó phân
chia ra Ngũ Hành, trong thân chúng ta có Ngũ Hành, sự thật ra Ngũ Hành còn thiếu
mấy con, bởi vì trong Ngũ Hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ có khí không? Nó không
có.
Còn ở trong các con thấy này, ở trong Tứ Đại của đức Phật có đủ bốn chất:
Đất, Nước, Gió, Lửa. Gió là khí đúng không. Trong thân chúng ta không có hơi thở
sao, thế mà Ngũ Hành có hơi thở không? Không có nói. Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ,
mà Kim, Mộc như chỉ là một thôi, bởi vì cây và sắt nó chỉ là chất đất mà thôi.
Các con hiểu không? Thành ra gồm lại có ba chất, không đủ, có ba không đủ, còn
đạo Phật đủ.
Như vậy văn minh của Trung Quốc là văn minh thiếu, mặc dù các hiền triết
nói ra, nhưng mà các hiền triết còn chưa bằng đức Phật. Cho nên làm sao bằng
cái văn minh của Ấn Độ. Ông Phật nói quá đúng.
Trong thân chúng ta mà văn minh của Trung Quốc cho có ba chất, thì như vậy
chưa thành con người, mà dám khẳng định rằng là con người. Kim, Mộc, Thủy, Hỏa,
Thổ, và Âm Dương là một con người chứ gì? Sự thật ra văn minh Trung Quốc nói
còn sai, so sánh chúng ta mới thấy một người tu chứng người ta thấy thấu triệt.
Còn những nhà hiền triết như Khổng Tử, Lão Tử là những người chưa chứng, chưa
chứng đạo, chưa toàn triệt cho nên nhìn thấy còn sai.
Cụ thể rõ ràng, không! Thầy đem so sánh để thấy, chúng ta thấy. Cho nên đức
Phật dạy chúng ta để chúng ta biết rằng cái đúng của đức Phật nó rất đúng: Tâm
bất động, thanh thản, an lạc, vô sự là tâm vô lậu, chỗ đó không có đau khổ. Cái
mục đích của người tu theo đạo Phật để chứng đạo, không phải chứng thần thông,
phép tắc gì cả, mà sống được trong tâm bất động, thanh thản, an lạc, vô sự. Đó
là giải thoát, không còn đau khổ nữa.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét