382 CHỨNG ĐẠO TRONG ĐẠO PHẬT KHÁC VỚI NGOẠI ĐẠO
Như vậy tu
đâu phải khó đâu. Chỉ mình sống đúng, ăn không phi thời, ngày một bữa. Ngủ
không phi thời, giờ ngủ cho ngủ mà giờ không ngủ không được ngủ. Không được ngủ
phi thời, để cho tỉnh, đặng chúng ta ngồi tu. Chứ nếu như nó, cái giờ mình tu
mà nó lại buồn ngủ thì tu sao được. Cho nên ngủ không phi thời để cho tu. Và sống
độc cư không nói chuyện, tức là mình không phóng dật. Còn mình tiếp duyên mình
nói chuyện người này, người kia thì tâm của mình bị phóng dật, nó phóng dật.
Cho nên vì vậy mà giữ ba hạnh này trọn vẹn, thì ở trong thất, chỉ sáu tháng, bảy
tháng sau mình là chứng đạo. Chứng đạo tức là chứng cái trạng thái vô lậu, cái
trạng thái tâm bất động, đó là trạng thái của những bậc A La Hán. Người chứng
quả A La Hán là người ta chứng trong cái trạng thái vô lậu. Và khi mà chứng vô
lậu thì nó đủ những cái lực để mà chúng ta làm chủ sự sống chết của chúng ta,
muốn chết hồi nào chết, muốn sống hồi nào sống.
Cho nên người
tu chứng đạo thì không có nghĩa là nó thay đổi hoặc là phóng hào quang ánh sáng
gì cả, nhưng mà nó làm chủ bốn sự đau khổ. Ngày xưa đức Phật cũng vậy, khi đi
tu là khắc khoải trong lòng của mình, là bốn sự khổ của kiếp người, đi ra bốn cửa
thành. Quý Phật tử có đọc những lịch sử của đức Phật mà. Thấy nỗi khổ của con
người cho nên đức Phật mới bỏ cung vàng điện ngọc, bỏ vợ bỏ con đi tu. Đi tu
theo ngoại đạo, ngoại đạo dạy tu, nhập từ Không Vô Biên Xứ rồi Phi Tưởng Phi Tưởng
Xứ. Nhưng cuối cùng thấy lòng mình cũng chưa hết tham, sân, si, cũng không làm
chủ được sự sinh, già, bệnh, chết, những sự đau khổ đó. Nhưng mà đến khi mà tu
khổ hạnh sáu năm, hoàn toàn cũng không thấy được cái sự giải thoát, không thấy
được sự giải thoát. Cho nên cuối cùng thì đức Phật tự tìm ra một cái lối đi, tự
tìm ra được lối đi dưới cội bồ đề. Cuối cùng đức Phật tìm ra được cái phương
pháp "Ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện", tức
là Tứ Chánh Cần. Sau khi tu Tứ Chánh Cần thì dùng cái ý thức mình tác ý để mà
ngăn diệt. Mỗi lần có một ý niệm, có khởi một cái niệm thương ghét hay hoặc là
lo lắng điều gì thì đức Phật đều cũng tác ý dẹp. Gọi là ngăn ác diệt ác pháp
trong tâm của mình, cuối cùng tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh thì đức Phật nhìn
lại thấy rõ ràng trên thân quán thân. Cho nên sau này đạo Phật có Tứ Niệm Xứ.
Trên thân quán thân là pháp của Tứ Niệm Xứ. Tứ Chánh Cần là pháp của Phật, đâu
phải là của của ngoại đạo.
(14:01) Ngoại
đạo dạy dùng, chúng ta dùng tu tập để ức chế ý thức. Cho nên khi mà đức Phật
còn bé, đi với vua cha mà làm cái lễ hạ điền. Vua cha xuống ruộng cày thì đức
Phật ngồi dưới cây hồng táo. Rồi cũng nghe ngoại đạo dạy là "Ly dục
ly ác pháp, nhập Sơ Thiền" cho nên đức Phật cũng ngồi. Lúc bé,
bây giờ cũng ngồi bắt chước, là ức chế cái ý thức của mình. Ngồi im lặng, coi
như ly dục, ly ác pháp, không còn cái niệm đó, mới gọi là ly dục ly ác pháp. Đó
là ngoại đạo nó suy ngẫm như vậy. Cho nên đến khi mà đức Phật theo ngoại đạo tu
mà không thấy giải thoát, tìm đến cội bồ đề, rồi mới ngồi dưới cội bồ đề, mới
suy nghĩ: "Lúc nhỏ mình ly dục ly ác pháp, nhập Sơ Thiền." Thì
đức Phật nói nhập Sơ Thiền như vậy rõ ràng là bây giờ ý thức của mình không vọng
tưởng. Không vọng tưởng, thì lúc bấy giờ mình đã rơi vào trong không. Mà không
thì Không Vô Biên Xứ, là cái vị Thầy đã dạy mình nhập Không Vô Biên Xứ bằng
cách ức chế ý thức của mình để lọt vào trong không. Như vậy là không thể được,
không thể ly dục ly ác pháp mà nhập Sơ Thiền này được, như vậy không được.
Cho nên đức
Phật mới tư duy suy nghĩ, mới thấy từng niệm của mình. Mình ngồi lại bao giờ
cũng có vọng tưởng mà. Từng niệm khởi ra, đức Phật mới tác ý dừng, diệt nó. Cho
nên đức Phật mới biết được pháp Như Lý Tác Ý, chứ ngoại đạo đâu có biết. Các
con thấy không? Cho nên vì vậy mà khi đó cái pháp đầu tiên, cứ tác ý ngăn dừng
tất cả cái niệm. Tới cảm thọ đức Phật cũng làm gan, cũng không sợ trước cảm thọ,
cho nên cứ tác ý thôi. Cứ ôm chặt pháp tác ý, cứ tác ý đuổi, tác ý đuổi, cuối
cùng thì thân tâm bất động, thanh thản, an lạc, vô sự. Từ bất động, thanh thản
an lạc vô sự đó, cái thời gian nó còn ngắn, từ ba mươi phút, một giờ, thì đức
Phật mới nghiệm lại cái thân của mình, coi cái tâm của mình bây giờ không niệm
vậy nó ở đâu. Rõ ràng nó đang ở trên Tứ Niệm Xứ. Cho nên đức Phật nhìn lại,
nhìn lại nó để coi thử nó đang ở trên đó, nó bất động bao lâu. Nhưng khi nhìn
nó quán trên thân thì nó lại kéo cái thời gian dài ra, cái thời gian nó được
kéo dài. Cho nên suốt bảy ngày đêm toàn ở chỗ cái tâm bất động đó, không cần ăn
uống gì hết mà cơ thể thấy khỏe mạnh chứ không thấy bị đói, bị khát, bị khổ. Cuối
cùng thì chứng đạo, chứng đạo. Cho nên có bảy ngày đêm chứng đạo.
(16:04) Cho
nên vào đây thì Thầy, thứ nhất là như quý thầy hay các Phật tử mà muốn tu, vào
đây thì phải ăn ngày một bữa. Coi như cái nội quy của Tu viện. Mà phải phá cho
sạch hôn trầm, thùy miên, nghĩa là không còn ngủ phi thời. Giờ ngủ cho ngủ, chứ
không phải là không cho ngủ. Cho nên khi mà không ngủ phi thời rồi, thì vào đây
thì phải sống độc cư. Chỉ biết có một mình mình ở trong thất, không nói chuyện,
không đến thất ai, không ai nói chuyện gì với mình cả. Mà thấy người nào men
men đến thất là đóng cửa lại không tiếp duyên. Và suốt thời gian ở trong thất
như vậy thì cái người này, Thầy sẽ hướng dẫn, họ sẽ chứng đạo, họ sẽ biết cách
tu chứng đạo. Có vậy thôi, đơn giản quá mà. Mà chứng đạo là làm chủ được bốn sự
đau khổ của mình, chứ không có cái gì khác hơn hết. Cho nên đức Phật nói: "Pháp
ta không có thời gian, đến để mà thấy." Khi chúng ta không đến
thì thôi, mà đến là chúng ta thấy sự giải thoát liền.
Nói thí dụ
bây giờ tâm mình có sân này, ai đang nói gì mình tức đó, thì đức Phật có dạy rất
rõ mà, đang sân mà: "Quán ly sân tôi biết tôi hít vô, quán ly sân
tôi biết tôi thở ra". rồi hít vô thở ra năm hơi thở. Ngừng lại
xem coi cái tâm sân đó nó mất. Tại vì ý của mình muốn không còn giận hờn nữa,
cho nên mình nói: "Quán ly sân tôi biết tôi hít vô, quán ly sân
tôi biết (tôi thở ra)". Nương vào hơi thở, cứ biết hơi thở ra vô
vậy. Nhưng khi mà biết tập trung trong hơi thở, biết ra vô, thì khi dừng lại
không cần chú ý hơi thở nữa, thì lúc bây giờ nhìn lại cái tâm sân của mình nó
đã xả rồi. Còn bây giờ đó, mình biết là cái tâm mình còn sân, nhưng bây giờ
chưa có ai động nó, cho nên nó không sân. Cho nên nó có một phương pháp khác là
quán đoạn diệt tâm sân: "Quán đoạn diệt tâm sân tôi biết tôi hít
vô, quán đoạn diệt tâm sân (tôi biết tôi thở ra)." Mình tu một thời
gian, một tháng, hai tháng, ba tháng, thì cái tâm sân của mình nó đoạn diệt. Nó
đoạn diệt, nó không còn có trong tâm mình nữa, gọi là giải thoát.
Đó, tu lợi
ích lắm mấy con, tu là được. Mà chỉ mình ra công, mình cố gắng mình tu là lợi
ích thôi. Đừng để cho hoàn cảnh, hoàn cảnh nó chi phối mình. Lo lắng cái này,
lo lắng cái kia, nó làm cho mình không tu tập được, không tu tập được mấy
con. "Được thân người là khó, mà gặp được chánh pháp còn khó
hơn." Bởi vì tà pháp rất nhiều. Mấy con cứ, bây giờ đến chùa người
ta dạy mấy con cầu cúng, cầu siêu, cầu an, dạy tu thiền thì bị ức chế tâm. Đâu
có pháp nào mà chơn chánh, đâu có pháp nào mà làm chủ sự sống chết đâu. Cứ ngỡ
tưởng mình ngồi thiền là sau này mình làm chủ sự sống chết. Nhưng cuối cùng,
ngay từ bắt đầu mình không làm chủ, thì làm sao mình làm chủ được. Còn cái này
vô đầu, tâm tôi đang sân, tôi chỉ ngay đó mà tôi tác ý ra "Quán từ
bỏ tâm sân" hoặc là "Quán ly sân tôi biết tôi hít
vô, quán ly sân tôi biết tôi thở ra". Rồi ôm cái hơi thở, thở ra thở
vô năm hơi thở. Tác ý lần thứ hai nữa, năm hơi thở nữa xả ra thì vẫn thấy tâm
sân mất, nó ly được đó. Đó là pháp thực tế mà, ngay liền là có giải thoát liền,
thấy liền kết quả.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét